I/ VÀI KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1/ Các “Bài” trong Thánh lễ
2/ Phân Loại Hát
II/ VÀI LƯU Ý KHI HÁT PHẦN RIÊNG CỦA THÁNH LỄ
1/ Ca Nhập Lễ
2/ Ca Tiến Lễ
3/ Ca Hiệp Lễ
III/ VÀI LƯU Ý KHI HÁT PHẦN THƯỜNG LỄ
1/ Kinh Thương Xót
2/ Kinh Vinh Danh
3/ Kinh Tin Kính
4/ Sanctus
5/ Kinh Lạy Cha
6/ Kinh Lạy Chiên Thiên Chúa
IV. NHẬN ĐỊNH
VÀ ĐỀ NGHỊ
---------------------------------------------------
Có thể nói, Thánh lễ gồm 3 BÀI:
(1) Bài lễ = bản văn phụng vụ của Thánh lễ
(nằm trong Sách Lễ Rôma): Các lời nguyện thuộc chủ tế + kinh tiền tụng
+ ca nhập lễ + ca hiệp lễ;
(2) Bài đọc [Sách Thánh] (nằm trong Sách
Bài Đọc);
(3) Bài hát: (i) Nằm trong “Sách hát của Giáo Hội hoàn vũ”
= Graduale Romanum/ Graduale Simplex; (ii) Nằm trong sách hát của
GH địa phương (những bài hát đã được Hội Đồng Giám Mục [-GM] chuẩn nhận để dùng
trong phụng vụ).[1]
Phụng vụ phân biệt 2 loại hát: (a) Hát phụng vụ (singing
the liturgy)/hát Thánh lễ (singing the Mass); và (b) Hát trong phụng
vụ (singing at the liturgy)/hát trong Thánh lễ (singing at the Mass).
a/ Hát phụng vụ/Thánh lễ
Hát phụng vụ/Thánh lễ là phụng vụ/Thánh lễ được hát lên (sung
liturgy/Mass). Trong trường hợp Thánh lễ, hát phụng vụ là hát chính bản văn
phụng vụ của Thánh lễ. Bản văn phụng vụ của Thánh lễ bao gồm bản văn thuộc Nghi
thức Thánh lễ (Ordo Missae) và thuộc phần cử hành Lời Chúa (Sách Bài Đọc):
- Bản văn phụng vụ thuộc Nghi thức Thánh lễ bao gồm: (i) Những
lời đối đáp, tung hô = dấu thánh giá, lời chào, kinh nguyện dành cho LM, kinh
Tiền tụng, Sanctus, Tung hô tưởng niệm, Vinh tụng ca, lời mời gọi hiệp lễ và những
lời theo sau, lời giải tán; (ii) Phần thường lễ = kinh Thương xót, kinh Vinh
danh, kinh Tin kính, kinh Lạy Cha, kinh Lạy Chiên Thiên Chúa; (iii) Phần riêng
của Thánh lễ = đối ca nhập lễ/hiệp lễ (trong Sách Lễ Rôma/Graduale
Romanum/Graduale Simplex), ca tiến lễ trong sách Graduale
Romanum/Graduale Simplex.
- Bản văn phụng vụ thuộc phần cử hành Lời Chúa (chính là bản
văn Thánh Kinh được công bố) bao gồm: (i) Thánh vịnh đáp ca; (ii) Câu tung hô
Tin Mừng; (iii) Các Bài đọc Sách Thánh nằm trong Sách Bài Đọc.
Lưu ý: Các bản văn trên phải được dịch cách trung thực. Ngoại
trừ phần riêng của Thánh lễ là đối ca nhập lễ/ca tiến lễ/ca hiệp lễ, nhạc sĩ cần
giữ nguyên vẹn bản văn khi soạn các âm điệu cho chúng, nghĩa là dệt nhạc trên bản
văn mà không được thay đổi gì.[2] Nếu
dệt nhạc cho đối ca nhập lễ/ca tiến lễ/ca hiệp lễ, thì khi hát bản
văn này, chúng ta hát Thánh lễ (sing the Mass). Còn nếu lấy ý từ chúng để
sáng tác hoặc dùng ca khúc khác để hát thay thế cho ca nhập lễ/ca tiến lễ/ca hiệp
lễ, chúng ta đang thực hành hát trong Thánh lễ (sing at the Mass).
b/ Hát trong phụng vụ/Thánh lễ
Hát trong phụng vụ/Thánh lễ là hát bài thánh ca mà bản văn
không chính thức thuộc về Thánh lễ. Những bài thánh ca này hoặc được sáng tác dựa
theo/theo ý bản văn Kinh Thánh/bản văn phụng vụ của Thánh lễ ấy hoặc có nội
dung phù hợp với các phần Thánh lễ, ngày lễ/mùa phụng vụ. Như vậy, lời của các
ca khúc này chỉ là những “Bản văn được thay thế” cho bản văn phụng vụ. Trường hợp
này, Hội Thánh dành cho các Ðấng Bản Quyền địa phương quyền quyết đoán cho dùng
các bài ca khác để thay thế những bài ca nhập lễ, ca dâng lễ và ca hiệp lễ in
trong sách hát Graduale Romanum/Graduale Simplex miễn là những
bài đó hợp với: các phần Thánh lễ, ngày lễ, cũng như mùa phụng vụ.[3] Đây
là một kẽ hở trong phụng vụ, bởi vì nhiều nơi đã sử dụng ca khúc thay thế mà nội
dung có thể đi quá xa Thánh lễ, trong khi đối ca nhập lễ/tiến lễ/hiệp lễ thường
là bản văn Thánh Kinh và chúng phục vụ như một sự chú giải chính thức hay giúp
tín hữu suy niệm về Thánh lễ đang cử hành.
II/ VÀI LƯU Ý KHI HÁT PHẦN RIÊNG
CỦA THÁNH LỄ
Phần riêng của Thánh lễ bao gồm ca nhập lễ, ca tiến lễ, ca
hiệp lễ, thánh vịnh đáp ca, tung hô Tin Mừng và ca tiếp liên. Ở đây chỉ giới hạn
xem xét ca nhập lễ, ca tiến lễ, và ca hiệp lễ mà thôi:
Chọn lựa đầu tiên để hát ca nhập lễ là hát chính tiền xướng/đối
ca (antiphona) trong Graduale Romanum/Graduale Simplex cùng
với Thánh vịnh. Đây là những bài thánh ca được dệt nhạc từ chính lời
của đối ca và các Thánh vịnh đã được chỉ định làm ca nhập lễ trong Graduale
Romanum/Graduale Simplex (x. UB Thánh Nhạc – HĐGM VN, Hướng Dẫn
Mục Vụ Thánh Nhạc [= MVTN], số 73, 133a).[4]
Chọn lựa thứ hai là hát bài thánh ca được sáng tác (1) dựa
vào/theo ý của đối ca và Thánh vịnh đã được chỉ định làm ca nhập lễ
trong Graduale Romanum/Graduale Simplex; hoặc được sáng tác (2)
dựa vào/theo ý bản văn ca nhập lễ của ngày lễ được ghi trong Sách Lễ
Rôma (đây là gợi ý tốt cho việc chọn bài hát ca nhập lễ với nội dung
tương hợp).[5] (Quy
chế Tổng quát Sách Lễ Rôma (= QCSL), 48; MVTN 133b).
Chọn lựa thứ ba là hát bài
thánh ca đã được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận với các chủ đề sau: (1) quy
tụ (giúp hợp nhất cộng đoàn); (2) mùa phụng vụ/ngày lễ (hướng
tâm hồn tín hữu về mầu nhiệm mùa phụng vụ hoặc ngày lễ; (3) tác động
phụng vụ (cuộc rước tiến đến bàn thánh) (x. QCSL 47); (4) liên hệ với
các Bài đọc Sách Thánh trong Thánh lễ.[6]
Không nên chọn hát ca nhập lễ với những bài mang âm hưởng lê
thê, buồn sầu, u uất, ảm đạm, cũng như mang dáng vẻ suy niệm trầm tư, bởi vì đặc
tính của bài ca nhập lễ là nét hân hoan, vui tươi, khơi dậy niềm phấn khởi nơi
các tín hữu tham dự Thánh lễ.[7]
Quy luật về cách hát ca tiến lễ cũng giống như cách
hát ca nhập lễ. Như vậy, ca tiến lễ được hát như sau: hoặc luân phiên giữa
ca đoàn và cộng đoàn, hoặc luân phiên giữa một ca viên và cộng đoàn, hoặc tất
cả do cộng đoàn hát, hay do một mình ca đoàn hát mà thôi (x. QCSL 48, 74;
MVTN 162).
Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma [2002] cho
chúng ta 3 chọn lựa để hát ca tiến lễ: (1) Hát đối ca với Thánh vịnh của
nó (antiphona cum psalmo suo) từ Graduale Romanum; (2) Hát đối
ca với Thánh vịnh của nó từ Graduale Simplex; (3) Hát một
bài thánh ca nào khác phù hợp với (a) cử hành phụng vụ (tác động phụng vụ:
bánh rượu và dâng tiến), hoặc (b) với tính chất của ngày lễ hoặc (c)
mùa phụng vụ mà bản văn đã được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận (x. QCSL 48/74,
367; MVTN 162). Điều này có nghĩa là chúng ta phải dành ưu tiên cho những bài
hát [dệt lời Thánh vịnh/theo ý Thánh vịnh] mà Hội thánh đã chỉ định trong
sách Graduale Romanum/Graduale Simplex hơn là ca khúc thay thế
(x. PV 121).
Đang khi linh mục [chủ tế] rước lễ, thì hát ca hiệp lễ chứ
không phải rung chuông hoặc đánh chiêng trống vào lúc này như thực hành trước
kia nữa vì trong Nghi Thức Thánh Lễ và QCSL hiện nay, không có bất cứ điều gì
được nói về rung chuông trước khi hiệp lễ cả (x. Notitiae 8
[1972] 343; QCSL 86, 159; Nghi Thức Thánh Lễ [= NTTL], 136; Sách Lễ Nghi
Giám Mục [= LNGM] 163; MVTN 178).[8] Nghĩa
là nên bắt đầu bài ca hiệp lễ ngay lập tức sau lời đáp của cộng đồng: “Lạy
Chúa, con chẳng đáng Chúa….” vì đây là cách diễn đạt bằng “ngôn ngữ của phụng vụ”
về sự hợp nhất thiêng liêng của cộng đoàn phụng vụ qua sự hợp nhất nơi tiếng
hát của họ: hợp nhất với Chúa Kitô và hợp nhất với nhau. Nếu còn hát bài nào
sau khi rước lễ, thì phải kết thúc ca hiệp lễ vào đúng lúc (QCSL 86, 159; NTTL
136; MVTN 178).[9]
Nhằm liệu cho các ca viên được rước lễ cách thích hợp, thì
khi các tín hữu đã rước lễ xong, [ngoại trừ trong Mùa Chay], đàn phong cầm có
thể tiếp tục chơi một số đoạn của bài hát rước lễ đang lúc tráng chén. Lúc này,
mọi tín hữu đã ngưng hát, và bắt đầu cảm tạ Chúa cách riêng tư, đây là thời khắc
ca đoàn lên rước lễ [tức là vào lúc kết thúc hoặc sắp kết thúc việc rước
lễ] (MVTN 184; QCSL 86).[10]
Về ca hiệp lễ, có thể hát như sau:
(1) Hoặc dùng đối ca theo
ngày lễ trong sách Graduale Romanum, (2) hoặc
dùng điệp ca theo mùa phụng vụ trong sách Graduale Simplex, hoặc (3) bài
hát nào khác thích hợp đã được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận (QCSL 87; MVTN
179).[11] Bài
hát thích hợp nói ở đây là bài ca hiệp lễ với chủ đề là: (a) Thánh
Thể (nhưng không phải bài tập trung vào tôn thờ Thánh Thể vốn dùng cho giờ chầu
Thánh Thể);[12] (b) tình
yêu Thiên Chúa; (c) niềm vui rước Chúa; (d) niềm
ngưỡng mộ; (e) sự hiệp nhất; (f) bài
Tin Mừng của ngày lễ; (g) mùa phụng vụ; (h) phản
ánh động tác phụng vụ, thí dụ ăn và uống Mình và Máu Thánh Chúa
Kitô; (i) lòng biết ơn và tán tụng. Thêm nữa, luôn luôn
có thể hát Thánh vịnh 33 với điệp khúc Hãy nếm thử thay thế ca
hiệp lễ (x. MVTN 180, 183).[13] Chúng
ta nên dành ưu tiên cho những bài hát [dệt lời Thánh vịnh/theo ý Thánh vịnh] mà
Hội thánh đã chỉ định cho phần này trong sách Graduale Romanum/Graduale
Simplex hơn là ca khúc thay thế.[14]
Như vậy, không hát ca hiệp lễ về ngày lễ như mừng Mẹ Maria,
thánh Giuse (bổn mạng), công ơn cha mẹ (lễ an táng, mừng tuổi thọ…), kỷ niệm
hôn phối, tình quê hương [quốc khánh, lễ dân tộc…] (MVTN 180, 183). Những bài
ca này có thể hát khi Thánh lễ kết thúc hay vào những lúc cầu nguyện chung, đem
hát lúc sau rước lễ sẽ làm lệch lạc ý nghĩa của cử hành phụng vụ.[15]
Cuộc rước đi lên lãnh nhận Mình Thánh Chúa cùng với việc cộng
đoàn đồng thanh ca hát không chỉ diễn tả sự hiệp nhất với Chúa mà còn với nhau
nữa, biểu dương niềm hân hoan và làm nổi bật tính cộng đồng của đoàn người đang
lên rước lễ (QCSL 86).[16] Vì
thế, (1) nên chọn bài hát vừa vui tươi vừa quen thuộc đối với mọi người
sao cho khi không có sự trợ giúp của cuốn sách hoặc giấy in bài hát, hầu như cộng
đồng vẫn có thể hát được [ít là câu điệp khúc] đang khi tuần tự lên rước lễ
(MVTN 181);[17] (2)
đừng bao giờ đi lên rước lễ mà cả nhà thờ thinh lặng, điều này khiến chúng ta
như bị đẩy vào kinh nghiệm của xếp hàng check – in ở sân bay, xếp hàng đi mua
vé hay đi viếng xác.[18]
III/ VÀI LƯU Ý KHI HÁT PHẦN THƯỜNG
LỄ
Từ “Kyrie eleison” (“Xin Chúa thương xót”) trong nguyên ngữ
Hy lạp không có nghĩa là đấm ngực ăn năn vì “chúng ta là tội nhân trong bàn tay
giận dữ của Thiên Chúa”.[19] Đúng
hơn, nó có nghĩa là một sự chúc tụng tung hô (confessio laudis) Thiên
Chúa là Đấng hằng thương xót và chúng ta trông cậy vào Ngài; cũng có nghĩa là
tuyên xưng tình thương trung thành không hề đổi thay của Ngài.[20] Rõ
ràng, Kyrie được mô tả như một lời tung hô và nó không phải là
hành động thống hối (actus penitentialis) hay là thành phần của hành động
thống hối mà chỉ là được ghép/đặt trong bối cảnh thống hối (x. QCSL 46, 52,
125, 258; LNGM 255); chỉ một lần duy nhất Kyrie là thành phần
của nghi thức thống hối khi vị tư tế chọn cử hành theo công thức/mẫu sám hối thứ
III.[21] Sự
độc lập của Kyrie eleison hay sự tách rời Kyrie
eleison ra khỏi công thức thống hối (x. NTTL 7) cho thấy cách tỏ tường
rằng: (1) Kinh “Lạy Chúa, xin thương xót” là lời chuyển cầu lên Đức Kitô
là trung gian;[22] (2) Kinh
“Lạy Chúa, xin thương xót” là một bài tung hô Chúa phục sinh mà sự hiện diện của
Ngài làm chúng ta phải nhảy mừng lên trước lòng từ bi hải hà từ nơi Ngài chảy
tràn trên chúng ta.[23] Nên
biết rằng, theo mô tả của thánh Gregory thành Tours (năm 590), Kyrie vốn
là lời tung hô phổ biến thời ngài, được hát đang khi đi rước.[24] Bởi
vậy, không nên hát Kyrie theo kiểu ảm đạm thê lương, ngay cả
trong Thánh lễ an táng (x. PV 81). Điều này có nghĩa là, trong Thánh lễ an
táng, không nhất nhất cứ phải hát Bộ lễ mồ, chúng ta có thể và rất nên hát Bộ lễ
khác như Sêraphim hoặc Ca Lên Đi 2 (hợp âm
D).[25]
Kinh “Xin Chúa thương xót chúng con” là lời tung hô dâng lên
Chúa Kitô, quy về Chúa Kitô chứ không phải quy về Thiên Chúa Ba Ngôi vì cả 3
câu trong mẫu thống hối III đều hướng tới Chúa Kitô và được gọi là công thức ca
ngợi phẩm tính Chúa Kitô.[26]
Không hát kinh Vinh danh vào các Chúa nhật Mùa Vọng và Mùa
Chay (vì sử dụng lễ phục tím), nhưng đối với lễ trọng và lễ kính rơi vào trong
các mùa này, thì vẫn hát kinh Vinh danh như thường lệ [vì không sử dụng lễ phục
tím] (x. QCSL 53, 126, 258; MVTN 137).
Không được thay thế bản văn của thánh thi Gloria bằng
bản văn nào khác (QCSL 53; MVTN 137) trừ trường hợp trong Thánh lễ dành cho trẻ
em cùng với phép của Bản Quyền chuẩn nhận (x. TE 31).
Kinh Tin kính phải do linh mục hát hoặc đọc chung với cộng
đoàn vào các ngày Chúa nhật và lễ trọng; cũng có thể đọc trong những cử hành đặc
biệt khá long trọng (x. QCSL 68, 137; NTTL 18; Notitiae 7
[1971] 112, n. 2).
Nếu hát kinh Tin kính, thì linh mục, hoặc tùy nghi một ca
viên hay ca đoàn xướng lên, rồi tất cả mọi người cùng hát, hoặc cộng đoàn hát
luân phiên với ca đoàn. Nếu không hát, thì mọi người cùng đọc hoặc chia làm hai
bè đối đáp (x. QCSL 68; MVTN 159).
Giữa đọc và hát, thông thường nên chọn đọc thì tốt hơn vì
nguồn gốc và bản chất của kinh Tin kính chỉ ra rằng kinh này phù hợp một cách tự
nhiên với việc đọc hơn là hát (x. CHTL 170).[27] Điều
này có nghĩa là chỉ nên hát trong trường hợp/hoàn cảnh đặc biệt, chẳng hạn như
trong Thánh lễ có đông đảo người tham dự hoặc trong dịp cử hành long trọng mà
chúng ta muốn nhấn mạnh/tập trung hơn vào việc tuyên xưng đức tin.[28]
Chúng ta nên hát Sanctus trong mọi Thánh lễ
vì: (1) Thứ nhất, tự bản chất, đây là bài ca tung hô và chúc
tụng Chúa Kitô; (2) Thứ hai, trong việc tung hô chúc tụng
này, cộng đoàn dưới thế hợp với lời ca tiếng hát của các thiên thần trên trời
như vẫn được nhắc đến trong hầu hết các kinh Tiền tụng; (3) Thứ
ba, theo dòng lịch sử, Sanctus luôn luôn được hát. Thật vậy,
vào ngày lễ Lều, dân Do Thái làm thành đoàn rước lá, họ vừa đi vừa hát hosanna. Đối
với phụng vụ Do Thái, từ khoảng năm 200, Sanctus được hát trong
giờ phụng vụ ban sáng (Kedusha) tại hội đường. Còn trong phụng vụ Công
giáo, ngay từ ban đầu, Sanctus được toàn thể cộng đoàn hát. Nếu
dành riêng cho ca đoàn thể hiện như xảy ra vào đầu thời kỳ Trung cổ, thì ca
đoàn cũng hát chứ không đọc (x. MVTN 169).[29]
Trong thực hành, sau những lời cuối cùng của kinh Tiền tụng,
nhạc công chỉ nên bắt nốt nhạc bài Sanctus thật ngắn và thật
nhỏ để làm cho lời tung hô này bùng lên lập tức và đúng lúc.[30]
Kinh Lạy Cha chính là lời kinh chuẩn bị rước lễ cao nhất. Bởi
vì, (1) thứ nhất, trong kinh Lạy Cha, chúng ta
xin Chúa ban bánh ăn hằng ngày cũng là ám chỉ xin bánh Thánh Thể (QCSL 81);[31] (2)
thứ hai, kinh Lạy Cha mời gọi chúng ta một lần nữa dọn lòng đón Chúa đến bằng
cách xin Chúa thanh tẩy tâm hồn mình cho khỏi tội lỗi (QCSL 81) với điều kiện
là chúng ta phải tỏ lòng xót thương đối với người khác trước đã qua sự tha thứ
cho họ (Mt 6,14-15; 18,21-35; 5,23-24).[32]
Vì kinh Lạy Cha là kinh chuẩn bị rước lễ cao nhất, do đó,
nên hát kinh Lạy Cha vào dịp lễ long trọng và không cần đọc bất cứ một lời kinh
đạo đức bình dân nào khác nữa để chuẩn bị rước lễ.[33]
Trong khi hát/đọc kinh Lạy Cha, thông thường chỉ các vị tư tế
mới dang tay hướng lên trời trong tư thế “orans” (x. NTTL 124; QCSL 152; LNGM
159).[34] Tại
Việt Nam, trừ các tư tế, các tín hữu khác chưa được phép dang tay như tư tế
đang khi đọc kinh này ngoại trừ tư thế duy nhất được đề nghị cho họ là tư thế đứng
(x. QCSL 43, 160).
Chủ tế không nên kêu gọi cộng đoàn nắm lấy tay nhau và các
tín hữu cũng không tự tiện nắm lấy tay nhau đang khi đọc/hát kinh Lạy Cha vì: (1)
đây là một cử chỉ được đem vào phụng vụ một cách tự nhiên theo sáng kiến cá
nhân chứ không phải theo hướng dẫn của chữ đỏ; (2) việc nắm
tay vào lúc này, theo quan điểm biểu tượng, sẽ như là đi trước và sao chép y
như dấu hiệu trao chúc bình an. Hậu nhiên, sẽ làm suy yếu hoặc rút mất giá trị
của dấu hiệu trao chúc bình an sẽ diễn ra sau đó (x. NTTL 128; QCSL 82,
154; Notitiae 11 [1975] 226).[35]
Ðang khi vị tư tế bẻ bánh và bỏ một phần vào chén thánh thì
ca đoàn hay ca viên hát đối đáp/đọc lớn tiếng kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa” (x.
NTTL 129-130; QCSL 83).
Kinh này nên được hát vào Chúa nhật/lễ trọng và có thể được
lặp đi lặp lại [theo kiểu Kinh Cầu]: “Lạy Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần
gian” – “Xin thương xót chúng con” bao lâu còn cần để kèm theo việc bẻ bánh. Lần
cuối cùng được kết thúc bằng câu: “Xin ban bình an cho chúng con” (x. NTTL
129-130; QCSL 83; Notitiae 14 [1978] 306, n. 8).[36]
(1) Tại Việt Nam, hiếm có nơi nào hát Thánh lễ, đa số chúng
ta hát ca khúc/bản văn thay thế, tức là chỉ hát trong Thánh lễ;
(2) Lý tưởng là chúng ta hát Thánh lễ bởi vì bấy giờ chính bản
văn phụng vụ/Thánh lễ được hát lên xét như bản văn đã được Hội Thánh quy định
cũng như muốn dùng chúng để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa tín hữu, do đó hát
phụng vụ/Thánh lễ cần được nhận thức như một thực hành ưu tiên hơn là hát trong
phụng vụ/Thánh lễ (hát thay thế);
(3) Tuy nhiên trong thực tế, liên quan đến ca nhập lễ,
ca dâng lễ và ca hiệp lễ, chúng ta có thể thực hành như sau:
(a) vào những ngày lễ thường trong tuần/ lễ nhớ/ thậm
chí lễ kính, chúng ta có thể dùng các bài ca khác để hát thay thế cho ca nhập
lễ, ca dâng lễ và ca hiệp lễ in trong sách hát Graduale
Romanum/Graduale Simplex/Sách lễ Rôma;
(b) vào ngày lễ Chúa nhật/ lễ trọng/ dịp trọng thể,
nên hát chính bản văn phụng vụ được dệt nhạc (ca nhập lễ, ca dâng lễ và ca hiệp
lễ in trong sách hát Graduale Romanum/Graduale Simplex) hơn là hát
bài thay thế (bản văn được thay thế); hoặc ít là, hát thay thế bởi những bài
thánh ca/ca khúc được sáng tác gần với/thích nghi với bản văn phụng vụ trong Graduale
Romanum/Graduale Simplex/Sách lễ Rôma (chúng ta có rất nhiều ca khúc
thuộc loại này).
(4) Hát phần thường lễ chắc chắn phải là hát Thánh lễ,
nghĩa là chỉ hát theo đúng lời trong Nghi thức Thánh lễ đã được dệt nhạc.
-------------------------
[1] X. Quy
chế Tổng quát Sách Lễ Rôma (= QCSL), các số 48, 74, 87.
[2] X. Hiến
chế Phụng vụ Thánh, số 22; Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 62; Thư
Bộ Phụng Tự gởi Ðức cha Chủ tịch UB Thánh Nhạc (03/02/2010); ĐTC
Bênêđictô XVI, Tông huấn Verbum Domini (11/11/2010),
các số 243-245.
[3] X. Huấn
thị về Thánh Nhạc Trong Phụng Vụ, số 32.
[4] Graduale
Simplex (2007) đơn giản hơn Graduale Romanum (1974).
Trong Graduale Simplex ghi Đối ca với nét nhạc đơn giản
hơn trong Graduale Romanum, nhưng có kèm theo 4-5 câu thánh
vịnh; Còn trong Graduale Romanum chỉ ghi Đối ca với nét
nhạc hoa mỹ hơn, mà không ghi các câu thánh vịnh ra, mà để tùy nghi ca
đoàn chọn hát thêm mấy câu trong Thánh vịnh đi kèm.
[5] Lê
Ngọc Ngà, “Nghệ thuật Cử hành Thánh lễ,” https://gpcantho.com/nghe-thuat-cu-hanh-thanh-le/.
[7] X.
Nathan Mitchell, OSB, “Six Minor Heresies in Today’s Music,” trong Practical
Music in Practice, ed. Virgil C. Funk and Gabe Huck (Chicago: Liturgy
Training Publications, 1979), 69-71; Nguyễn Thế Thủ, Hướng dẫn Cử hành
Phụng vụ, 62-63.
[8] X. Ritus
Servandus in celebratione Missae 1962, “De oratione dominica et aliis usque
ad factam Communionem,” n. 6; McNamara, “Có cần rung chuông khi Truyền
phép không?” (24/08/2005), dg. Nguyễn Ngọc Đa, http://giaophanthanhhoa.net/phung-vu/co-can-rung-chuong-khi-truyen-phep-khong-27292.html.
[9] X.
DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman
Missal (Chicago: Liturgy Training Publication, 2011), no.
86; Paul Turner, Let Us Pray: A Guide to the Rubrics of Sunday
Mass (Collegeville: The Liturgical Press, 2012), no. 702.
[10] McNamara,
“Reading of Notices After Communion” (20 Sep. 2016), https://www.ewtn.com/catholicism/library/reading-notices-after-communion-4823; X.
DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman
Missal, no. 86; Turner, Let Us Pray, no. 723.
[11] X. Liturgicae
instaurationes (5 septembris 1970), n. 2/b, AAS 62
(1970), 696.
[12] “Vào
hầu hết các lễ Chúa nhật và những ngày khác, luôn luôn là thích hợp
khi chọn hát một trong những Thánh vịnh mà bao đời nay có nội dung gắn
kết với việc tham dự bữa tiệc Thánh Thể, như Thánh vịnh 23, 34 và
147. Cũng đã có sẵn một tuyển tập những bài ca phụng vụ có ý diễn tả
niềm vui và lòng say mến khi được chia sẻ bữa tiệc của Chúa” (MVTN
183).
[13] Thông
cáo số 3/94 (30/08/1994) của Uỷ ban Thánh Nhạc – Hội đồng Giám mục VN.
[14] X.
Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 121.
[15] Nguyễn
Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể (Sài Gòn: ĐCV Thánh Giuse, 2001), 138.
[16] Trần
Ngọc Quỳnh, Cử hành Mầu nhiệm Tạ ơn (Sài Gòn: Tủ sách Đại Kết,
1996), 194.
[17] X.
East Asian Pastoral Review, Celebrate Life in Liturgy, vol. 33
(1996): nos. 1-4, 109; Lawrence E. Mick, Worshiping Well (Collegeville:
The Liturgical Press, 1997), 94; DeGrocco, A Pastoral Commentary on the
General Instruction of the Roman Missal, no. 86.
[18] X.
Mark Searle, Liturgy Made Simple (Collegeville: The Liturgical
Press, 1981), 71.
[19] Kevin
W. Irwin, Responses to 101 Questions on the Mass (New
York/Mahwah: Paulist Press, 1999), 47.
[20] X.
Lucien Deiss, Visions of Liturgy and Music for a New Century, trans.
Jane M. A. Burton (Collegeville: The Liturgical Press, 1996), 171.
[21] X.
Peter Elliott, Ceremonies of the Modern Roman Rite (San
Francisco: Ignatius Press, 2004), no. 252: footnote số 15, 94; USCCB Committee
on Divine Worship, “Exploring the Relationship between the
Penitential Act and Kyrie at Mass,” truy cập 22/04/2022, https://www.canticanova.com/articles/liturgy/art9da1.htm; Jeff
Ostrowski, “Is the Kyrie part of the Penitential Rite?” (Feb. 24, 2014), https://www.ccwatershed.org/2014/02/24/kyrie-part-penitential-rite/.
[22] Phan
Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu (Sài Gòn: Học Viện Đaminh,
2012), 143.
[23] X.
Vincie, “The Mystagogical Implications,” trong A Commentary on the
Order of Mass of the Roman Missal, ed. Foley Edward (Collegeville: The
Liturgical Press, 2011), 130.
[24] Historia
Francorum X. 1; PL 105. 1113f trích lại trong Deiss, Visions
of Liturgy and Music for a New Century, 163; Gélineau, Liturgical
Assembly, Liturgical Song, trans. Bernadette Gasslein (Portland:
Pastoral Press, 2002), 105.
[25] X.
Phạm Đình Ái, SSS, “Tinh thần của Nghi thức Thống hối trong Thánh lễ,”
trong Nhìn lại một số Vấn đề Phụng vụ tại Việt Nam (1) (Hà Nội:
Nxb. Tôn Giáo, 2016), 97-102.
[26] X.
Paul Turner, The Supper of the Lamb, 18.
[27] X.
Charles E. Miller, The Celebration of the Eucharist (New York:
Alba House, 2010), 128.
[28] X.
Deiss, Visions of Liturgy and Music for a New Century, 224-225.
[29] Phạm
Đình Ái, SSS, “Những phần nên hát trong mọi Thánh lễ,” trong Nhìn lại một
số Vấn đề Phụng vụ tại Việt Nam, 255-273.
[30] X.
David Haas, Music and the Mass (Chicago: Liturgy Training
Publications, 1998), 78.
[31] X.
Augustinô, “Bài đọc Kinh Sách thứ Ba Tuần XXIX – Mùa Thường Niên”; Jeremy
Driscoll, What Happens at Mass (Chicago: Liturgy Training
Publications, 2005), 118; Phan Tấn Thành, Cử hành Bí tích Tình yêu, 256-258;
Josef A. Jungmann, SJ, The Mass: An Historical, Theological, and
Pastorical Survey, trans. Julian Fernandes, SJ (Collegeville: The
Liturgical Press, 1976), 205.
[32] X.
Le Gall, La Messe au fil de ses rites ((Chambray: C.L.D,
1992), 194.
[33] Phạm
Đình Ái, Để Nhớ đến Thầy (Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai, 2018),
361-62; X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction
of the Roman Missal, no. 81.
[34] Đây
là cử điệu của người đang cầu nguyện/van nài được thực hiện trong tư thế đứng,
khuỷu tay sát vào hai bên thân thể và hai tay dang ra, còn lòng bàn tay thì ngửa
hướng lên trên như chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước (2 Mcb 14,34;15,12.21;
G 11,13-15; Tv 68,32…): x. Charles Herbermann, ed., “Orans”, Catholic
Encyclopedia (New York: Robert Appleton Company, 1913).
[35] X. McNamara,
“Holding Hands at the Our Father” (18 Nov. 2003), https://www.ewtn.com/catholicism/library/holding-hands-at-the-our-father-4289.
[36] Musicam sacram (5 March 1967), 34, AAS 59 (1967), 310.
Nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thanh-le-va-thanh-nhac-phan-thuong-le-phan-rieng-cua-thanh-le-45941