Trong nghi thức hiệp lễ, thực ra có hai loại bài ca chứ không phải một loại
như nhiều người lầm tưởng. Đó là ca hiệp lễ và bài ca sau rước lễ.
I. Đọc hay hát ca hiệp lễ?
Trong Sách lễ Roma, mỗi Bài lễ đều có ghi ca hiệp lễ dùng để
đọc trong trường hợp không hát ca hiệp lễ như chỉ dẫn của Quy chế Tổng Quát
Sách lễ Rôma (QCSL) số 87: “Nếu không hát, thì giáo dân, hoặc một vài
giáo dân hay độc viên, đọc ca hiệp lễ ghi trong Sách lễ. Nếu không có ai khác,
thì chính vị tư tế đọc sau khi đã rước lễ, và trước khi cho tín hữu rước lễ”. Đọc
ca hiệp lễ là vì:
1. Linh mục cử hành lễ một mình hay chỉ với một người tham dự;
2. Số người tham dự thánh lễ quá ít ỏi đến độ hầu như không
làm thành cuộc rước hiệp lễ;
3. Cộng đoàn không đủ lực để hát liên quan đến số người có
thể hát không nhiều hoặc thành phần tham dự toàn những vị già nua tuổi tác hay
bệnh tật yếu đau;
4. Thánh lễ được cử hành cho những nhóm đi hành hương hay du
lịch mà họ không tiện mang đàn và sách hát theo.
Ngoài 4 lý do vừa nêu thì hết sức bao nhiêu có thể, chúng ta
phải hát ca hiệp lễ trong mọi thánh lễ như sẽ được trình bày dưới đây. Hễ đọc
ca hiệp lễ rồi thì không hát nữa mà nếu hát ca hiệp lễ được thì không cần đọc
ca hiệp lễ nữa vì ca hiệp lễ được ghi trong Sách lễ Roma được dự trù để đọc
trong trường hợp không thể hát ca hiệp lễ mà thôi.
II. Bắt đầu hát ca hiệp lễ khi nào?
Xin thưa: “Ðang khi vị tư tế rước lễ, thì bắt đầu
hát ca hiệp lễ”.[1] Vì thế, nên bắt đầu bài ca hiệp lễ ngay
lập tức sau lời đáp của cộng đồng: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa…”. Chỉ
dẫn này dựa trên nền tảng lịch sử và thần học như sau:
1. Lịch sử
Thật vậy, ít nhất vào thời thánh Augustinô (354-430), người
ta đã có thói quen hát Thánh vịnh (Tv) trong lúc mọi người lên rước lễ.[2] Theo
thánh Cyrilô thành Giêrusalem, một bản văn được cả bên Đông lẫn bên Tây phương
ưa thích là Tv 34 (33), nhất là câu 9: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết
mấy!” nhằm diễn tả Thánh Thể là niềm vui của cộng đoàn.[3] Ngoài
Thánh vịnh 33 vừa nêu, bên Đông phương, thánh Gioan Kim Khẩu (344-407) nói đến
việc sử dụng Thánh vịnh 144 làm ca hiệp lễ (Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của
con…). Sau mỗi đoạn Thánh vịnh, mọi người đáp lại: “Lạy Chúa, muôn
loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn” (câu
15). Nhưng Typicon (Cẩm nang phụng vụ thế kỷ IX) làm chứng về một truyền thống
sớm sủa tại Constantinopoli về việc hát Tv 148 (Ca tụng Chúa đi, tự cõi trời
thăm thẳm…) vào các Chúa nhật và Tv 115 vào các ngày lễ trọng thể.
Tại Tây phương, thánh Ambrôsiô chấp nhận lấy trích dẫn Tv
42,4 và các phần của Tv 22 làm Thánh vịnh hiệp lễ. Còn tại Alexandria, Tv 150 (Ca
tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa…) không phải là Thánh vịnh duy nhất dùng
làm ca hiệp lễ nhưng có thể được coi là Thánh vịnh hiệp lễ chủ yếu.
Cuốn sách chứa những bài ca thánh lễ cổ xưa nhất có tên
là Antiphonalia missarum (thế kỷ IX -X) cho thấy ngoài việc sử
dụng Thánh vịnh để hát đi kèm với đoàn rước lên hiệp lễ, người ta còn sử dụng
những bản văn Kinh Thánh khác và phát triển việc hát ca hiệp lễ theo chủ đề của
thánh lễ đang cử hành, chẳng hạn từ Bản văn Tin Mừng Ga 6 và những Bài đọc Kinh
Thánh theo ngày. Đến thế kỷ XI, do số lượng các tín hữu lên rước lễ giảm thiểu
đáng kể và gần như không còn trong những buổi cử hành Thánh Thể trọng thể, nên
bài ca hiệp lễ dài kể như dư thừa. Sang thế kỷ XII, dân chúng hiếm khi rước lễ
trừ ra trong những ngày lễ trọng thể. Phần duy nhất của bài ca hiệp lễ còn lại
là câu điệp xướng được hát sau khi linh mục hiệp lễ và được giữ lại như một kỷ
niệm về việc rước lễ của tín hữu.
Kể từ thời gian này cho đến khi có những cải cách phụng vụ
vào thế kỷ XX, các tín hữu đã xa rời chiều kích cộng đồng của buổi cử hành phụng
vụ khi trở thành người xem lễ, quan sát viên, người nghe nhạc hơn là tích cực
tham dự vào phụng vụ như đã từng diễn ra trong các thánh đường thời thánh
Augustinô và thánh Gioan Kim Khẩu. Đến năm 1958, điệp xướng hiệp lễ cùng với một
Thánh vịnh thích hợp một lần nữa lại được cất lên đi kèm với cuộc rước các tín
hữu lên rước lễ. Nghi thức thánh lễ (Sách lễ 1970) đã phục hồi thực hành cổ xưa
tại Roma. Bài ca hiệp lễ được hát đang khi các tín hữu tiến lên rước lễ nhằm diễn
tả tinh thần hợp nhất của những người lãnh nhận Thánh Thể qua tiếng hát của họ.
Bài ca hiệp lễ cũng biểu lộ niềm vui của họ và làm cho cuộc rước hiệp lễ mang
tính huynh đệ hơn.
2. Thần học
Lý do thần học được nêu rõ trong QCSL số 86 như sau: “Bài
ca (hiệp lễ) này có mục đích diễn tả sự đồng tâm hiệp nhất thiêng liêng giữa những
người rước lễ, khi họ đồng thanh ca hát, đồng thời biểu lộ niềm vui trong tâm hồn
và làm cho việc tiến lên rước Mình Thánh Chúa có tính cách cộng đoàn hơn”.
Cử hành phụng vụ nào cũng mang đặc tính cộng đoàn. Vị chủ tế
cũng là một thành viên trong cộng đồng Hội Thánh đang cử hành thánh lễ. Vì vậy,
hát ca hiệp lễ phải bắt đầu ngay khi ngài đang rước lễ để không tách rời ngài
ra khỏi cộng đồng phụng vụ và để biểu dương sự hợp nhất thiêng liêng trong cộng
đoàn.
Hát ca hiệp lễ bắt đầu ngay khi chủ tế đang rước lễ vì lúc
này những người lên rước lễ tạo thành một cuộc rước. Nguyên tắc và truyền thống
phụng vụ của Hội Thánh từ xưa đến nay là hát luôn luôn đi kèm với cuộc rước. Bởi
thế, phải hát khi đang có cuộc rước hiệp lễ. Còn rước thì còn hát, cho nên phải
hát ca hiệp lễ cho đến khi mọi người rước lễ xong.[4] Khi số người
lên rước lễ nhiều đến độ một bài ca hiệp lễ đáp ứng không đủ, thay vì lặp lại
bài ca hiệp lễ nhiều lần, chúng ta nên hát thêm một hay nhiều bài thánh ca nữa,
miễn là phù hợp với nội dung và chủ đề của ca hiệp lễ hôm ấy. Tuy nhiên, đừng
bao giờ hát một mạch liên tục. Nên nối kết phần dành cho cộng đoàn và phần hát
dành cho một mình ca đoàn,[5] hoặc có lúc ngưng hát giữa các bài,
thậm chí giữa những câu phiên khúc trong một bài để dạo đàn, trừ những mùa
không được phép dạo đàn.[6]
Nếu đoàn người lên rước lễ mà không hát thì chẳng khác nào
những người xếp hàng check – in ở sân bay, xếp hàng đi mua vé xe, vé xem phim
hoặc như thể xếp hàng đi viếng xác người quá cố. Việc xếp hàng lên rước lễ là một
loại kinh nghiệm khác hẳn với những loại xếp hàng khác khi mọi người cùng nhau
ca hát trên đường lên rước lễ.[7] Việc hiệp lễ vừa có tính cách
riêng tư nhưng đồng thời cũng là một việc có tính cách cộng đồng rõ rệt.[8] Bài
ca hiệp lễ hướng chúng ta về cử hành mang tính cộng đồng ở bên ngoài hơn là hướng
vào cầu nguyện cá nhân.[9] Vì thế, QCSL 87 dạy rằng: “Không
phải họ chỉ đi lên lãnh nhận Mình Thánh cho riêng mình, không kể gì đến người
khác. Cần phải chứng tỏ rằng, mọi người chúng ta chỉ là một, và chúng ta sắp
cùng nhau hiệp thông với Mình Thánh Chúa Kitô để bày tỏ và củng cố sự hiệp nhất
giữa chúng ta với nhau qua bí tích rửa tội. Chính bí tích này làm cho chúng ta
trở thành chi thể của một thân thể duy nhất”.
Về phương diện mục vụ, cần tổ chức cử hành phụng vụ thế nào
để cuộc rước hiệp lễ diễn ra vừa trật tự khoan thai vừa lưu tâm đến cả kẻ trước
người sau. Cuộc rước cần chứng tỏ mọi người chỉ là một và mọi người cùng nhau
đi lên lãnh nhận Mình Thánh Chúa trong ý muốn biểu dương tinh thần hiệp nhất của
những người đã chịu bí tích thánh tẩy. Để cụ thể hóa tinh thần đó, nghĩa là bày
tỏ sự hiệp nhất ấy ra bên ngoài, không công việc nào thích hợp hơn là cộng đoàn
đồng thanh ca hát.[10]
Vì phải đồng thanh ca hát đang khi lên rước lễ, cho nên tốt
nhất ca hiệp lễ là bài hát cộng đồng, nghĩa là mọi người quen thuộc và có thể
hát được mà không cần đến sách hát hoặc giấy in bài hát.[11] Dân
chúng chỉ cần thuộc lòng và hát câu điệp khúc, còn các phiên khúc thì dành cho
ca đoàn hay lĩnh xướng viên.[12] Bấy giờ, ca hiệp lễ thành lời nguyện
của toàn thể cộng đoàn chứ không phải là màn trình diễn của một cá nhân hay của
riêng ca đoàn nhằm biểu lộ tài năng của họ.[13]
Đến đây, chúng ta đã hiểu vì sao phải chấm dứt tình trạng
thinh lặng đang khi lên rước lễ. Thật không may, rất nhiều cộng đoàn và giáo xứ
tại Việt Nam có những thực hành “bất tuân” những chỉ dạy của Giáo hội:
– Cả cộng đoàn rước lễ xong rồi mới hát ca hiệp lễ;
– Trì hoãn hát ca hiệp lễ cho tới khi các thành phần như: chủ
tế, các vị đồng tế, các phó tế, những người giúp lễ, những người đọc sách, những
thừa tác viên Thánh Thể và ca đoàn rước lễ xong rồi mới hát;
– Thay vì hát ca hiệp lễ thì lại đọc một bài suy niệm hay một
kinh nguyện nào đó;
– Tệ hơn cả là thông báo tin tức đang khi các tín hữu lên rước
lễ.
III. Nội dung và chủ đề của bài ca hiệp lễ
Ý nghĩa của bài ca hiệp lễ là:
1. Nội tâm hóa hành vi thể lý của những người đang tiến bước
lên rước lễ;
2. Diễn tả sự đồng tâm hiệp nhất của cả cộng đoàn trong việc
gặp gỡ Chúa cũng như niềm vui và diệu kỳ của sự kết hợp với Chúa;
3. Bày tỏ lòng biết ơn và tán tụng vì hồng ân Thánh Thể nhận
được.
Vì thế, ngay từ xưa, ca hiệp lễ quy vào bốn chủ đề: Thánh Thể;
ca tụng; mùa phụng vụ; và nội dung Tin Mừng của ngày lễ.[14]
Hiện nay, Giáo hội dạy rằng: “Về ca hiệp lễ, có thể
dùng điệp ca trong sách Graduale Romanum cùng với Thánh vịnh hay không có Thánh
vịnh, hoặc dùng điệp ca với Thánh vịnh trong sách Graduale simplex, hoặc bài
hát nào khác thích hợp đã được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận“.[15] Hai
cuốn sách hát Graduale Romanum và Graduale simplex cung
cấp đầy đủ bản văn Thánh vịnh bằng La ngữ, mỗi bài ca được được viết với một
hình thể âm nhạc xứng hợp để hát vào lúc nhập lễ, đáp ca, halleluia, dâng lễ và
hiệp lễ cho tất cả các ngày lễ và mùa lễ của năm phụng vụ.
Tại Việt Nam, Ủy ban Thánh Nhạc cho biết cụ thể chủ đề của
bài ca hiệp lễ là: diễn tả sự hiệp nhất, việc gặp gỡ Chúa, niềm vui và diệu kỳ
của sự kết hợp với Chúa, lòng biết ơn và tán tụng.[16] Vào các mùa
khác trong năm, nên chọn Thánh vịnh hoặc bài ca khi rước lễ theo tinh thần của
mùa ấy (mùa lễ). Vào hầu hết các Chúa nhật và những ngày khác, thật là thích hợp
để hát một trong những Thánh vịnh gắn kết với việc tham dự bữa tiệc Thánh Thể
như Tv 22, 33 và 146 (Chúa dưỡng nuôi chúng ta qua thần lương Thánh Thể).[17]
Ngoài ra, có thể dựa theo ca hiệp lễ trong Sách lễ để chọn
bài. Tất cả chúng đều được trích dẫn từ Thánh Kinh. Đối chiếu nội dung Kinh
Thánh này với kho bài hát đã được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận, chúng ta sẽ có
bài ca hiệp lễ thích hợp mà không phải là bài hát về Đức Mẹ hay các thánh.
Tóm lại, chủ đề của bài ca hiệp lễ là: niềm vui, sự kỳ diệu,
sự hiệp nhất, lòng biết ơn, tán tụng, mùa phụng vụ, nội dung Tin Mừng của ngày
lễ hôm ấy và Thánh Thể. Cần lưu ý, có những bài ca truyền thống về Thánh Thể được
soạn thảo cho việc ban phép lành Mình Thánh Chúa, do đó tập trung vào tôn thờ
hơn là hành vi hiệp lễ, nên không thích hợp để hát lúc rước lễ.
IV. Thinh lặng sau rước lễ hay hát bài ca sau rước lễ
QCSL số 88 chỉ dẫn: “Sau khi cho rước lễ, vị tư tế
và giáo dân tùy nghi cầu nguyện trong lòng một khoảng thời gian. Nếu muốn, tất
cả cộng đoàn cũng có thể hát một Thánh thi, một Thánh vịnh hay một bài Thánh ca
ngợi khen nào khác”. Tức là, sẽ rất hữu ích khi mọi người tham dự dành
ra ít giây phút thinh lặng sau rước lễ để tạ ơn Chúa, kết hợp với Chúa và hiệp
thông với cộng đoàn, vốn là thân thể của Chúa Kitô. Thinh lặng lúc này tạo cơ hội
cho tín hữu cầu nguyện nội tâm và chiêm niệm Mầu nhiệm Thánh Thể. Để sự im lặng
được trọn vẹn thật sự, sau khi cho rước lễ xong, các thừa tác viên nên để các
bình thánh ở bàn đồ lễ và tiến hành tráng chén sau thánh lễ.
Cần phân biệt bài ca hiệp lễ với bài ca sau hiệp lễ được hát
sau khi toàn thể cộng đoàn đã rước lễ xong. Vào lúc này, chúng ta có 2 chọn lựa:
1. Thinh lặng để tạ ơn Chúa như vừa nói trên;
2. Cả cộng đoàn đứng lên hát một Thánh vịnh, Thánh thi hay
thánh ca có chủ đề chúc tụng và tạ ơn như Benedictus hay Magnificat…[18]:
các bài hát này không phải là bài hát theo chủ đề của ngày lễ như mừng Mẹ
Maria, thánh Giuse (bổn mạng), công ơn cha mẹ (lễ an táng, mừng tuổi thọ…), kỷ
niệm hôn phối, tình quê hương (quốc khánh, lễ dân tộc…). Những bài ca này có thể
hát khi thánh lễ kết thúc hay vào những lúc cầu nguyện chung, đem hát lúc sau
rước lễ sẽ làm lệch lạc ý nghĩa của cử hành phụng vụ.[19]
Nếu đã hát ca hiệp lễ rồi, thinh lặng có thể là chọn lựa ưu
tiên hơn, đáng ao ước thực hiện hơn là hát bài ca sau rước lễ.[20]
[1] QCSL số 86 và Nghi thức Thánh Lễ số 136.
[2] Didache và Ordo Romanus I, Xc. Paul Turner,
The Supper of the Lamb (Chicago: Liturgy Training Publications, 2011), 145.
[3] Lucien Deiss, The Mass I (Minnesota: The
Liturgical Press, 1992), 100.
[4] Xc. QCSL 86.
[5] Xc. Uỷ ban Thánh nhạc (HĐGM Việt Nam), Hướng
dẫn Mục vụ Thánh Nhạc (= MVTN), số 182.
[6] Không dạo đàn solo trong mùa Chay trừ ra
Chúa nhật thứ IV (Chúa nhật hồng), các ngày lễ kính và lễ trọng (x. QCSL 313).
[7] Xc. Mark Searle, Liturgy Made Simple
(Minnesota: The Liturgical Press, 1981), 71.
[8] Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh Thể, (Sài Gòn:
ĐCV Thánh Giuse, 1997), 160.
[9] Xc. Kathleen Harmon, The Ministry of Music
(Minesota, Collegeville: Liturgical Press, 2004), 37.
[10] MVTN 181; Trần Ngọc Quỳnh, Cử hành Mầu nhiệm
Tạ Ơn (Sài Gòn: TS Đại Kết, 1996), 194.
[11] Xc. East Asian Pastoral Review, Celebrate
Life in Liturgy, Vol. 33 (1996), No. 1-4, 109.
[12] Xc. Lawrence E. Mick, Worshiping Well, 94.
[13] Xc. Celebrate Life in Liturgy, 109.
[14] MVTN 180.
[15] QCSL 87.
[16] MVTN 180.
[17] MVTN, số 180; 183.
[18] Xc. QCSL 88.164; MVTN 185.
[19] Vinh sơn Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể
(Sài Gòn: ĐCV thánh Giuse, 2001), 138.
[20] Xc. QCSL 45;88;164.
--------------------------------------
Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS
Thành viên Uỷ Ban Phụng Tự trực thuộc HĐGMVN
https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/ca-hiep-le-va-bai-ca-sau-ruoc-le-40649